Lời Chúa, Biển & Sống
Mùa xuân đang về. Cảnh vật bao sắc thắm. Lòng người bao rộn rã niềm vui. Vui mừng vì được tham dự Đại Hội Kinh Thánh toàn quốc tổ chức tại Tòa Giám Mục Nha Trang, từ ngày 19/02 đến ngày 21/02/2019, với chủ đề: “Lời Chúa bền vững đến muôn đời” (1 Pr 1,25).
Đây là Đại Hội lần đầu tiên về Mục vụ Kinh Thánh, nhằm giúp người tín hữu đón nhận Lời Chúa, học hỏi và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
Đại Hội qui tụ gần 200 tham dự viên, trong có sự hiện diện của Đức hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, nguyên Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội; Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội; Đức Giám mục Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Giáo phận Nha Trang, chủ tịch Ủy ban Kinh Thánh; Đức Giám mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột; Đức Giám mục Anphongso Nguyễn Hữu Long, Giám mục Giáo phận Vinh, Đức Giám mục Lu-y Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Sài Gòn, Đức Giám mục Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục Giáo phận Cần Thơ và quý linh mục, tu sĩ nam nữ cùng giáo dân từ 27 Giáo phận.
Việc chăm chú đón nhận Lời Chúa đã được thực hành ngay từ thời các tông đồ. Sách Công vụ Tông đồ đã diễn tả như sau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.” (Cv 2,42). Lắng nghe Lời Chúa là một trong bốn trụ cột làm nên sự vững mạnh của đức tin nơi đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn. Hai ngàn năm qua, Hội Thánh lớn lên và phát triển cũng theo chiều hướng đó. Đặc biệt, từ Công Đồng chung Vaticanô II với Hiến Chế Dei Verbum (1965), Tông huấn Evangelii Nuntiandi (1975) của ĐTC Phaolô VI, với Thượng Hội Đồng Giám mục Thế giới lần thứ XII về “Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội” (2008), Tông huấn Verbum Domini (2010) của ĐTC Bênêdictô XVI, Tông huấn Evangelii Gaudium (2013) của ĐTC Phanxicô và ngày 30.9.2019, lễ thánh Giêrônimô, Đức Thánh Cha Phanxicô ấn định Chúa Nhật thứ III mùa Thường niên là “Chúa Nhật cử hành, suy tư và phổ biến Lời Chúa”. Quyết định này được Đức Thánh Cha đề ra trong Tông Thư Tự Sắc “Aperuit illis” - Chúa mở tâm trí cho họ (Lc 24,45).
Thực hành Lời Chúa trong đời sống cũng được HĐGM VN nhiều lần nhắc đến, nhất là trong Thư Chung năm 1980, các ngài mời gọi mọi tín hữu hãy “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc.” Trong Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa, 2010, “Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu (1). Trong Tông Thư Tự Sắc “Aperuit illis” - Chúa mở tâm trí cho họ, Đức Thánh Cha Phanxicô gợi ý: “Các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt cho Lectio Divina.” (2).
Không chỉ có một ngày Chúa Nhật thứ III Thường Niên mà thôi, nhưng người tín hữu, như Đức Cha Chủ tịch Ủy ban Kinh Thánh kêu gọi, luôn “tham dự với lòng sốt sắng và đặt mình lắng nghe Lời Chúa, để Lời Ngài trở thành ánh sáng dẫn đường cho tất cả chúng ta” (3).
Trong ngày cử hành Chúa Nhật Lời Chúa lần đầu tiên (26.1.2020), một lần nữa, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích mọi tín hữu học hỏi, cầu nguyện và sống Lời Chúa: “Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tạo không gian bên trong chính mình cho Lời Chúa! Mỗi ngày, chúng ta hãy đọc một hoặc hai câu Kinh Thánh. Chúng ta hãy bắt đầu với Tin Mừng: chúng ta hãy để sách Kinh Thánh mở ra trên bàn chúng ta, hãy mang sách Kinh Thánh trong túi hoặc trong giỏ xách của chúng ta, hãy đọc Kinh Thánh trên điện thoại di động của chúng ta và để Lời Chúa truyền cảm hứng cho chúng ta hàng ngày. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa gần gũi với chúng ta, rằng Người xua tan bóng tối trong chúng ta và, với một tình yêu vĩ đại, Chúa đang dẫn dắt cuộc sống của chúng ta vào vùng nước sâu.” (4).
* Kinh Thánh là những LỜI của Thiên Chúa nói với loài người, được ghi chép lại dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần (linh hứng) và được Hội Thánh công nhận, như thư gửi tín hữu Do Thái viết: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng miệng các Ngôn sứ mà phán dạy cha ông ta; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy ta qua Thánh Tử” (Dt 1, 1- 2).
* Kinh Thánh ghi lại kế hoạch cứu độ do Thiên Chúa có sáng kiến, loan báo và thực hiện trong lịch sử loài người. Đó chính là lịch sử của Đấng Cứu Thế vì Người là trung tâm và tột đỉnh của Kinh Thánh: trong Cựu Ước, Người được các Tiên tri loan báo, và trong Tân Ước, Người được các Tông đồ minh chứng.
* Kinh Thánh gồm 73 cuốn và được chia làm hai phần chính: Cựu Ước và Tân Ước. (1) Cựu Ước gồm 46 cuốn viết từ khoảng năm 1.000 trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. (2) Tân Ước gồm 27 cuốn viết từ sau Chúa Giêsu về trời đến năm tông đồ Gioan chết (khoảng năm 100).
* Tác giả Kinh Thánh : Thiên Chúa là tác giả của Kinh Thánh. Ngài đã soi sáng (linh hứng) cho các Thánh ký dùng tài năng của mình và ngôn ngữ loài người để viết những gì Thiên Chúa muốn nói với loài người.
Sơ Lược Nội Dung Các Sách
CỰU ƯỚC
A. Ngũ Kinh còn gọi là Luật (Torah), gồm 5 quyển đầu tiên của Cựu Ước. Năm quyển này là nền tảng cho đời sống của dân Do Thái, đó là:
Sách Sáng thế (St) gồm hai phần:
- Nguồn gốc của vũ trụ và con người, sự sa ngã và lời hứa cứu độ.
- Các truyền thống về thủy tổ của dân Ítraen và giải thích sự có mặt của họ trên đất Ai cập.
Sách Xuất hành (Xh) : kể lại cuộc ra khỏi Ai cập như một kinh nghiệm về quyền năng giải thoát của Thiên Chúa; giao ước Xinai như một kinh nghiệm cộng đồng về sự gặp gỡ Thiên Chúa.
Sách Lêvi (Lv) : chỉ dẫn các lễ nghi tế tự.
Sách Dân số (Ds) : tiếp theo chuyện Xuất hành, kể về cuộc hành trình và đời sống của dân Ítraen trong hoang địa trên đường về Đất Hứa.
Sách Đệ nhị luật (Đnl) : bài diễn văn của ông Môsê trình bày lại Giao ước, răn đe và khuyến giục dân chúng.
B. Các sách Sử và Truyện (16 cuốn)
Sách Giôsuê (Gs) : kể lại cuộc chinh phục đất Canaan. Giôsuê nối tiếp sự nghiệp của Môsê, dẫn dân Ítraen vượt qua sông Giođan, đánh chiếm toàn thể Đất Hứa, sau đó phân chia đất đai cho các chi tộc. Cuối cùng là đại hội toàn dân tại Sikhem.
Sách Thủ lãnh (Tl) : kể chuyện 12 vị anh hùng dân tộc Chúa dùng trong thời kỳ sau Giôsuê cho đến khi lập vương quốc.
Sách Rút (R) : kể chuyện về lòng đạo đức hiếu thảo của một nàng dâu người xứ Môáp, sau trở thành bà cố nội của vua Đavít.
Sách 1 và 2 Samuen (1 Sm, 2 Sm) : kể chuyện ông Samuen là vị Thủ lãnh cuối cùng và là thiết lập chế độ quân chủ theo yêu cầu của dân. Ông vua thứ nhất được tấn phong là Saun đã không trung thành với Chúa. Vua thứ hai là Đavít, người đã đưa nước Ítraen tới thời hoàng kim.
Sách 1 và 2 các Vua (1 V, 2 V) kể chuyện các vua từ Salômôn đến thời lưu đày. Sau vua Salômôn, vương quốc chia làm hai, phía bắc gọi là Ítraen, phía nam gọi là Giuđa. Hai bên kình địch nhau.
Sách 1 và 2 Sử biên niên (1 Sb, 2 Sb) : tác giả thuộc truyền thống tư tế, kể lại lịch sử các triều đại và đặc biệt tô điểm Đavít như hình ảnh vương quyền của Thiên Chúa.
Sách Étra (Er) và sách Nơkhemia (Nkm) : là hai vị lãnh đạo đã khôi phục Giêrusalem, đền thờ, luật Môsê, việc phụng tự và sự trung thành với nòi giống.
Sách Tôbia (Tb) : nhằm đề cao đời sống đạo đức của những người trung thành giữ Luật Chúa, cầu nguyện và làm việc lành phúc đức, dầu sống xa Đất Hứa cũng được Chúa chúc phúc.
Sách Giuđitha (Gđt) và Sách Étte (Et) : ca ngợi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa. Chúa có thể dùng những phụ nữ yếu đuối để cứu cả dân.
Sách 1 và 2 Macabê (1 Mcb, 2 Mcb) : kể lại những cuộc nổi dậy của Giuđa Macabê, chống lại mưu đồ của các vua Hy lạp nhằm tiêu diệt đạo Do thái.
C. Các sách Khôn Ngoan (gồm 7 cuốn)
Các sách Khôn Ngoan là những suy tư về nhân sinh và giáo huấn luân lý.
Sách Gióp (G) : là một vở kịch bằng thơ, chủ đề là ý nghĩa của sự đau khổ.
Sách Thánh Vịnh (Tv) : là bộ sưu tập thánh ca, gồm 150 bài thơ tôn giáo, khoảng phân nửa được coi như của Đavít sáng tác. Người Do Thái, Chúa Giêsu và Giáo Hội công giáo dùng như kinh nguyện chính thức.
Sách Châm ngôn (Cn) : gồm nhiều bộ sưu tập lời của những người khôn ngoan.
Sách Giảng viên (Gv) : suy tư khắc khoải về ý nghĩa của cuộc sống, về cái hư ảo của trần thế.
Sách Diễm ca (Dc) : gồm 5 bài tình ca diễn tả mối tình giữa Chàng và Nàng, được coi như những bài ca ngợi tình yêu giữa Thiên Chúa và Dân Người.
Sách Khôn ngoan (Kn) : khuyến giục dân Do thái xa tránh những tập tục vô luân của thế giới ngoại giáo.
Sách Huấn ca (Hc) : sưu tập những lời khôn ngoan đức hạnh.
D. Các sách Ngôn Sứ (prophet) (gồm 18 cuốn)
Ngôn sứ là các xướng ngôn viên của Thiên Chúa. Nhờ đời sống chiêm niệm, các Ngài hiểu được ý Chúa và lên tiếng nói với dân, vạch cho họ thấy những lỗi lầm, kêu gọi họ quay về với Giao Ước, loan báo hình phạt và ơn cứu độ. Các lời hứa cứu độ thường ám chỉ một Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô. Sau Ngũ Kinh thì các sách Ngôn Sứ là phần quan trọng nhất trong Cựu Ước. Có thể chia làm 2 nhóm: 4 ngôn sứ “lớn” và 12 ngôn sứ “nhỏ” (nói về độ lớn nhỏ của cuốn sách). Sau đây là các sách:
Sách Isaia (Is) : là cuốn lớn nhất, gồm ba phần:
- Chương 1-39 gọi là Isaia đệ nhất, là vị ngôn sứ rao giảng ở xứ Giuđa trong giai đoạn đen tối nhất lịch sử Israel, 742-687 thời kỳ vương quốc phía Bắc Israel bị tàn phá. Ông nhìn thấy vực thẳm đáng sợ giữa Thiên Chúa thánh thiện và con người tội lỗi.
- Chương 40-55 gọi là Isaia đệ nhị, là một vị ngôn sứ thời lưu đày. Ông loan báo niềm hy vọng cứu độ và sứ mạng mới của Dân Chúa. Ông nói về ”nhóm nhỏ” gồm những người khiêm nhường, 4 bài hát về ”Người tôi tớ Giavê”, Messiah là Đấng được xức dầu.
- Chương 56-66 gọi là Isaia đệ tam, có lẽ là sưu tập của nhiều ngôn sứ sau thời lưu đày, nhằm củng cố niềm tin của cộng đồng Do thái hồi hương.
Sách Giêrêmia (Gr) : chép lời rao giảng và tiểu sử của Giêrêmia. Ông hoạt động vào thời kỳ vương quốc miền nam là Giuđa sắp bị diệt vong. Ông chứng kiến cảnh Giêrusalem bị thất thủ, vua quan tư tế và dân chúng bị lưu đầy sang Babylon. Cuộc đời và lời rao giảng của ông mang trọn nỗi bi đát của thời đại, nhưng ông vẫn nói lên niềm hy vọng vào cuộc chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa.
Sách Ai ca (Ac) : gồm ba bài theo thể “điếu tang”, đọc vào dịp lễ kỷ niệm đền thờ bị phá hủy. Ngày nay Hội Thánh đọc sách này trong Tuần Thánh.
Sách Barúc (Br) : nói về đời sống tôn giáo của người Do thái ở hải ngoại và ảnh hưởng mạnh mẽ của ngôn sứ Giêrêmia.
Sách Êdêkien (Ed) : ông thuộc hàng tư tế, bị lưu đầy ở Babylon. Rao giảng của ông nhằm giúp những người lưu đày hiểu biết về hiện tại của mình và giữ vững niềm hy vọng ở tương lai.
Sách Đanien (Đn) : thuộc thể văn “khải huyền”, nhằm an ủi khích lệ Dân Chúa giữ vững niềm tin trong cơn thử thách.
Sách Hôsê (Hs) : chép lời rao giảng và cuộc đời của Hôsê. Ông cưới một người vợ là gái làng chơi tên Gomer. Gomer “ngựa quen đường cũ”, nhưng Hôsê lại tìm về. Ông sống nỗi bi đát của tình vợ chồng bị phản bội để làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa bị phản bội.
Sách Giôen (Ge) : mô tả tai họa và công bố lời hứa giải thoát. Lời hứa tuôn đổ Thần Khí được ứng dụng vào biến cố Ngũ Tuần.
Sách Amốt (Am) : là một người chăn chiên. Ông giải thích “Ngày của Chúa” như ngày phán xét những kẻ kiêu hãnh.
Sách Ôvađia (Ôv) : ngắn nhất và không rõ nguồn gốc. Sách đề cao sự công thẳng khủng khiếp của Thiên Chúa.
Sách Giôna (Gn) : là một câu chuyện nhằm đề cao một quan niệm phổ quát về ơn cứu độ.
Sách Mikha (Mk) : loan báo hình phạt và lời hứa cứu độ.
Sách Nakhum (Nk) : lời sấm về sự trừng phạt đế quốc Átsua và loan báo ơn cứu độ cho Giuđa.
Sách Khabacúc (Kb) : chất vấn Chúa vì Chúa để cho dân hung ác đe dọa Dân Chúa, và Chúa trả lời: “Người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín”.
Sách Xôphônia (Xp) : loan báo “Ngày của Giavê”, một thảm nạn đổ ụp xuống trên mọi dân tộc, cảm hứng cho bài “Dies irae” hát trong lễ mồ.
Sách Khácgai (Kg) : cổ võ việc xây lại đền thờ sau thời lưu đày.
Sách Dacaria (Dcr) : gồm hai phần: chương 1-8 thuộc thời kỳ tái thiết và phục hưng; chương 9-14 giáo huấn về Đấng Mêsia.
Sách Malakhi (Ml) : sau khi đền thờ được xây lại năm 515, kêu gọi thanh tẩy mọi tội lỗi để thờ phượng Chúa.
TÂN ƯỚC
Ghi lại lời chứng của các Tông Đồ về mầu nhiệm Chúa Kitô. Gồm 27 quyển chia làm:
A. Các sách Tin Mừng là: Mátthêu (Mt), Máccô (Mc), Luca (Lc) và Gioan (Ga): tường thuật về cuộc đời Chúa Giêsu.
B. Sách Công Vụ Tông đồ (Cv): Tường thuật về hoạt động của các tông đồ, đặc biệt là Phêrô và Phaolô.
C. Các thư của các tông đồ, gồm có:
- 13 thư của thánh Phaolô gởi cho các cộng đoàn và các cá nhân là: thư Rôma (Rm), thư 1 và 2 Côrintô (1 Cr, 2 Cr), thư Galát (Gl), thư Êphêxô (Ep), thư Philípphê (Pl), thư Côlôxê (Cl), thư 1 và 2 Thêxalônica (1 Tx, 2 Tx), thư 1 và 2 Timôthê (1 Tm, 2 Tm), thư Titô (Tt), thư Philêmôn (Plm)
- 1 thư gởi cho “tín hữu Do thái”: thư Do thái (Dt)
- 7 thư chung là: thư Giacôbê (Gc), thư 1 và 2 Phêrô (1 Pr, 2 Pr), thư 1, 2 và 3 Gioan (1 Ga, 2 Ga, 3 Ga), thư Giuđa (Gđ).
D. Sách Khải huyền (Kh) : viết theo thể văn “khải huyền”, nhằm khích lệ các Kitô-hữu đang trải qua những cơn bách hại khốc liệt vào cuối thế kỷ thứ nhất. (5)
Khi tham dự Đại Hội Kinh Thánh toàn quốc, tôi rất vui mừng vì đã gặp những người tôi yêu mến: Đức hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, tôi đã gặp ngài trong Đại Hội Giáo Lý toàn quốc 2011 tại Hà Nội, Cha giáo Inhaxiô Hồ Thông, tôi rất thích những bài Suy niệm - Chú giải Lời Chúa được đăng trên trang http://www.kinhthanhvn.net/ hay Cha Antôn Nguyễn Cao Siêu, với loạt bài Học hỏi Phúc Âm, mà tôi được hân hạnh có bài đăng cạnh ngài trên http://www.kinhthanhvn.net/ trong mục Lectio Divina.
Mùa đông, thời tiết lạnh lẽo. Thở khò khè và nhiều khi phải ngồi lên mới có thể thở được. Nhiều đêm phải thức trắng.
Trong những ngày Đại Hội, chiều chiều, tranh thủ ra biển tắm. Hy vọng với sóng biển trong sạch sẽ giúp tôi dễ thở hơn trong giấc ngủ.
Từ sau ngày Đại Hội, tự nhiên, tôi không còn thở khò khè nữa.
Trong sóng biển Nha Trang, tôi nhớ về Biển Chết, nơi tôi đã đến. Biển Chết nhưng mà sống.
Biển Chết (tiếng Ả Rập: البحر الميت, tiếng Hebrew: ים המלח) hay Tử Hải là một hồ nước mặn nằm trên biên giới giữa Bờ Tây, Israel và Jordan trên thung lũng Jordan. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Trong tiếng Hêbrơ, biển Chết được gọi là Yam ha-Melah – có nghĩa là "biển muối" hay Yam ha-Mavet – có nghĩa là "biển chết". Trong quá khứ nó còn có tên gọi là "biển Đông" hay "biển Arava". Trong tiếng Ả Rập biển Chết được gọi là Al Bahr al Mayyit – có nghĩa là "biển Chết" – hay ít phổ biến hơn là Bahr Lūţ - có nghĩa là "biển của Lot". Trong lịch sử thì tên gọi theo tiếng Ả Rập khác là "biển Zoar", lấy theo tên gọi của khu đô thị gần đó. Đối với người Hy Lạp thì biển Chết là "hồ Asphaltites" .
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất là 400 m. Bề mặt biển Chết nằm ở 417,5 m (1.369 ft) dưới mực nước biển (số liệu năm 2005).
Nước biển Chết chứa khoảng 21 khoáng chất, bao gồm magiê, canxi, brôm và kali. 12 trong số các khoáng chất này không tìm thấy trong các biển/đại dương khác, và một số trong chúng được ghi nhận là có ảnh hưởng tới cảm giác thư giãn, bổ dưỡng da, trị các vấn đề về da (như: chàm, vảy nến, hắc hào, ghẻ lỡ, và mụn), hoạt động của hệ tuần hoàn và làm giảm nhẹ bệnh thấp khớp cũng như các rối loạn trao đổi chất. So sánh thành phần hóa học của biển Chết với các hồ/đại dương khác chỉ ra rằng nồng độ muối của biển Chết là 31,5% (có dao động). Do độ cao bất thường về độ mặn của nó nên người ta có thể nổi trong biển Chết khá dễ dàng nhờ tác dụng của sức nổi. Nước biển Chết gây ra cảm giác trơn nhờn. Nước này tạo ra cảm giác cay và có thể gây ra thương tích khi lọt vào mắt.
Biển Chết có sức lôi cuốn đặc biệt du khách từ các khu vực xung quanh Địa Trung Hải trong hàng nghìn năm qua. Nó là nơi nương tựa của Vua David, một trong các nơi nghỉ ngơi đầu tiên trên thế giới của Herod Đại Đế, và là nguồn cung cấp các sản phẩm khác nhau như nhựa thơm cho việc ướp xác của người Ai Cập cho tới bồ tạt để làm phân bón.(6)
Con xin chân thành cám ơn Đức Cha Vinh Sơn, Cha Trưỏng Ban Giáo Lý Đức Tin Gioan Baotixita đã cho con cùng tham dự Đại Hội Kinh Thánh Toàn quốc lần đầu tiên này. Chính sự tham dự này đã giúp con xác tín và khuyến khích con trong việc làm cho tuyển tập Vui Học Thánh Kinh ngày một dày thêm.
Gb. Nguyễn Thái Hùng
1.2020