Lời Chúa THỨ BẢY TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Thứ tư - 26/06/2024 19:45 |   63
“Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16,13-19)

29/06/2024
thứ bảy TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

Thánh Phêrô và thánh Phaolô, tông đồ

Phêrô Phaolô

Mt 16,13-19


NGƯỜI CÓ PHÚC
“Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16,13-19)


Suy niệm: Sau lời tuyên tín “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống,” Phê-rô được khen là người có phúc. Cái phúc của Phê-rô không đến từ lời tuyên xưng đúng về căn tính của Thầy Giê-su, mà đến từ lòng tin vào điều Thiên Chúa đã mặc khải. Phê-rô có phúc vì không chọn tin vào những điều người ta nói, nhưng tin vào Thiên Chúa, đón nhận những gì Thiên Chúa khai mở cho ông. Phê-rô có phúc vì ông đã dùng đã cuộc đời của mình để sống, làm chứng điều ông xác tín: ngoài Đức Giê-su ra, “không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).

Mời Bạn: Ai cũng đều muốn là người có phúc. Nhưng cái phúc lớn nhất của con người không đến từ những thứ thuộc thế gian, nhưng đến từ Thiên Chúa, hay có Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Cái phúc đó Thiên Chúa dành tặng cho tất cả những ai tin vào Ngài, đón nhận những gì Ngài mặc khải, và sống chết hết lòng gắn bó với Ngài.

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày, bạn dành một khoảng thời gian thích hợp cho việc cầu nguyện.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con vững tin hơn vào Chúa, tìm thánh ý Chúa mỗi ngày, nỗ lực thực thi những gì Chúa mời gọi, và thực sự là người có phúc. Amen.
           
Ngày 29: Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu! Xin cho chúng con ý thức rằng: Chúa đã cho chúng con tham dự vào hy tế của Chúa. Thánh Giá là hy tế duy nhất của Chúa. Chúa là Đấng trung gian duy nhất giữa Chúa Cha và chúng con, xin cho chúng con được thông phần vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa. Xin cho chúng con nhớ rằng: Chúa đã mời gọi chúng con vác thập giá mình mà theo Chúa, vì Chúa đã chịu đau khổ vì chúng con, đã để lại một gương mẫu cho chúng con dõi bước theo. Chúa muốn cho chúng con được thông phần vào hy tế cứu độ của Chúa, xin cho chúng con biết bắt chước Thân Mẫu của Chúa, Đấng đã thông phần vào mầu nhiệm đau thương cứu độ của Chúa, mật thiết hơn ai hết. Amen.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

 


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
thứ bảy TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN

 

Ca nhập lễ

Chúa là mãnh lực của dân Người, là chiến luỹ bảo vệ mạng sống người Chúa đã xức dầu. Lạy Chúa là phần rỗi tôi, xin cứu sống dân Chúa, và chúc phúc cho phần gia nghiệp Chúa, xin hãy chăn dắt họ đến muôn đời.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng trọn niềm tôn kính và ái mộ Thánh Danh, vì những ai được Chúa cho khăng khít với Chúa, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi bao giờ. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 1-15

“Ðối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con trai”.

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mặt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông. Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua. Con xin lấy ít nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít bánh mời các Ðấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng đã ghé vào nhà con”. Các Ðấng ấy nói: “Như ông đã ngỏ, xin cứ làm”.

Abraham liền vào lều và bảo Sara rằng: “Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng”. Còn ông, ông chạy đến đàn bò bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Ðấng. Chính ông đứng hầu các Ðấng dưới bóng cây.

Ăn xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng: “Sara bạn ông đâu?” Ông trả lời: “Kìa, bạn con ở trong lều”. Một Ðấng nói tiếp: “Ðộ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai”. Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: “Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!” Chúa phán cùng Abraham rằng: “Sao Sara lại cười mà rằng: “Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?” Ðối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai”. Sara chối mà rằng: “Con không có cười”, bởi vì bà khiếp sợ. Nhưng Chúa đáp lại: “Không đúng, bà có cười”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Lc 1, 46-47. 48-49. 50 và 53. 54-55

Ðáp: Chúa đã nhớ lại lòng từ bi của Chúa .

Xướng: Ðức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi.

Xướng: Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh.

Xướng: Ðức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không.

Xướng: Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời.

Bài Ðọc I: (Năm II) Ac 2, 2. 10-14. 18-19

“Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Thiên Chúa”.

Trích sách Ai Ca.

Chúa phá tan các báu vật nhà Giacóp chẳng nương tay: trong cơn thịnh nộ, Chúa phá huỷ thành luỹ thiếu nữ Giuđa. Người quật xuống đất và làm sỉ nhục cả vương quốc, cả quan chức cao sang.

Các kỳ lão của thiếu nữ Sion ngồi dưới đất thinh lặng, mình mang áo nhặm và rắc tro trên đầu. Còn các trinh nữ Giêrusalem gục đầu xuống đất. Mắt tôi hao mòn vì quá khóc than, lòng tôi bàng hoàng thổn thức, gan tôi đổ tràn trên đất, vì các tai hoạ của thiếu nữ dân tôi: các trẻ thơ, hài nhi măng sữa, xỉu la liệt giữa phố phường. Chúng xin mẹ: “Bánh mì rượu tốt ở đâu?” Chúng ngã xỉu ngoài đường phố như bị gươm đao. Chúng tắt thở ngay nơi lòng mẹ.

Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, ta sánh ngươi cùng ai, ta ví ngươi như kẻ nào? Hỡi trinh nữ Sion, ta sánh ngươi cùng ai để an ủi? Vì nỗi khổ ngươi man mác tựa biển khơi, nào ai chữa nổi ngươi? Các tiên tri của ngươi nói bậy nói sai, chẳng vạch cho ngươi một vài gian ác, cùng chẳng giục ngươi khóc lóc ăn năn, mà chỉ tiên kiến những điều giả dối, khiến ngươi bị trục xuất và lưu đày.

Trên tường thành thiếu nữ Sion, lòng họ kêu vang lên Chúa. Hãy chan hoà suối lệ đêm ngày, đừng để mắt ngươi yên nghỉ. Hãy chỗi dậy, hãy ca ngợi mỗi đầu canh đêm, hãy giốc đổ lòng ra như nước trước Nhan Chúa, hãy giơ tay cầu khẩn Chúa cho lũ trẻ thơ, chúng ngã xỉu vì đói ở góc đường xó chợ.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 73, 1-2. 3-5a. 5b-7. 20-21

Ðáp: Ðời sống con người cơ khổ, xin Chúa đừng nỡ quên hoài (c. 19b).

Xướng: Lạy Chúa, tại sao Chúa ruồng bỏ chúng con hoài? Tại sao Chúa nung nấu lửa hận với đoàn chiên Chúa? Xin nhớ lại cộng đồng Chúa thiết lập tự thuở xa xưa, xin nhớ bộ lạc Chúa đã chuộc để làm phần tư hữu, xin nhớ lại núi Sion, nơi Chúa đã đặt ngai toà!

Xướng: Xin Chúa dời gót tới nơi hoang tàn vĩnh viễn: tên thù đã tàn phá hết trong thánh điện của Ngài. Trong hội đường của Chúa, quân nghịch đã rống lên, chúng đã đặt cờ hiệu của chúng trên đài chiến thắng.

Xướng: Chúng giống như kẻ trong rừng rậm vung lưỡi rìu! Chúng cũng dùng rìu búa bổ vào cửa hội đường như thế, chúng đã châm lửa đốt thánh điện của Ngài, chúng chà đạp cung lâu danh Ngài tận đất!

Xướng: Xin Chúa nhìn lại lời minh ước, vì nơi hang hốc và đồng ruộng đầy dẫy bạo hành. Xin đừng để người khiêm cung trở về tủi hổ, xin cho người cơ hàn nghèo khổ được ngợi khen danh Chúa.

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 8, 5-17

“Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: “Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!” Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: “Tôi sẽ đến chữa nó”. Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!” Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: “Ông cứ về, ông được như ông đã tin”. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.

Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: “Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Thiên Chúa từ bi, chúng con hiến dâng những lễ vật này để tạ tội và ngợi khen Chúa; cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và dùng của lễ này mà thanh tẩy chúng con, hầu chúng con có thể dâng lên những tâm tình làm đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Lạy Chúa, muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Chúa ban lương thực cho chúng đứng theo giờ.

Hoặc đọc:

Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, và Ta thí mạng sống Ta vì các chiên Ta”.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho chúng con rước Mình và Máu Con Chúa để đổi mới chúng con, xin cho chúng con được chắn chắn hưởng ơn cứu độ, nhờ mầu nhiệm cử hành trong thánh lễ này. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

TUYÊN XƯNG NIỀM TIN
Lm. Giuse Vũ Công Viện

Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta tấm gương khiêm nhường và thành thật của một viên đại đội trưởng ngoại giáo.

“Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo đứa “đi”, là nó đi; bảo đứa kia “đến” là nó đến; bảo đầy tớ tôi làm, là nó làm”.

Câu nói này của viên đại đội trưởng chứng tỏ ông am tường thuật lãnh đạo và ông biết áp dụng vào cuộc sống tâm hồn. Ông biết giới hạn quyền hành của ông đến từ đâu. Ông nhận ra quyền hạn của mình và uy quyền của Thiên Chúa.

Ông biết luật của người Do-thái là không được đến nhà của người ngoại bang: bước vào nhà người dân ngoại sẽ bị ô uế. Ông cũng biết dù ông có chức quyền, nhưng đối diện với quyền năng của Chúa thì ông cũng chỉ là đầy tớ. Nên ông tự khiêm nhường không muốn quấy rầy Chúa. Không muốn Chúa phải bận tâm trước lời yêu cầu bé nhỏ của ông.

Ông suy tính việc Chúa chữa bệnh phần nào cũng giống như ông chỉ huy quân đội. Cũng như ông có quyền sai lính thế nào, thì Chúa là Đấng dựng nên con người cũng có quyền sai khiến điều khiển thân xác mà Ngài đã dựng nên như vậy. Suy nghĩ thế, nên ông chỉ yêu cầu Chúa ra lệnh cho gia nhân ông được lành bệnh.

Ý thức được những điểm như vậy. Ông vận dụng để giải quyết vấn đề với tất cả lòng tin. Ông xin Chúa chữa bệnh từ xa, không dám làm phiền Chúa.

Đứng trước Đức tin mạnh mẽ của ông, Chúa đã phải ca tụng “Chưa từng thấy ai trong Israel có lòng tin như thế”. Và Giáo Hội đã mượn lời tuyên xưng này để hằng ngày trong thánh lễ, người tín hữu có thể dâng lên Thiên Chúa lời tâm tình khiêm tốn và bất xứng của mình.

Khiêm nhường là bước đầu của việc tin nhận và yêu mến. Không cần phải có một sự hiểu biết đầy đủ mới có thể tin. Vì khi hiểu biết đầy đủ, con người không cần phải tin nữa, bởi họ đã nhìn thấy bằng con mắt trí tuệ rồi.

Khiêm nhường là chấp nhận sự thật. Chấp nhận sự thật đấy là một nguyên tắc để sống khiêm nhường. Khiêm nhường chỉ cho con người thấy thực tại của thân phận làm người, hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Lời tuyên xưng niềm tin của viên đại đội trưởng là kết quả của một sự hiểu biết đúng đắn về chính bản thân và về quyền năng của Thiên Chúa.

Muốn có sự hiểu biết đúng đắn, phải khiêm nhường và thành thật.

Ước gì lời Chúa hôm nay là một nhắc nhở chúng ta trong công việc hằng ngày, giúp chúng ta vững tin và nhận ra mọi ơn lành đến từ Chúa và dâng lời cảm tạ Ngài.

 

CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI ĐẦY TỚ CỦA VIÊN ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG (Mt 8,5-17)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

1. Chúa Giê-su đến thành Ca-phác-na-um, thì một viên sĩ quan ngoại giáo đến van xin Ngài chữa cho đầy tớ ông bị bại liệt đau khổ. Ngài hứa sẽ đến cứu chữa, nhưng ông quá khiêm tốn, không dám rước Chúa về nhà, chỉ xin Chúa phán một lời cho đầy tớ ông lành bệnh. Chúa thấy ông ta có lòng tin và khiêm tốn như thế thì ngạc nhiên và hết lời khen ngợi. Ngài bảo viên sĩ quan : ông cứ về, ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay lúc đó đầy tớ ông được khỏi bệnh.

2. Tin Mừng hôm nay thuật lại câu truyện lòng tin của viên sĩ quan đại đội trưởng Rô-ma, một lòng tin đã khiến Chúa Giê-su phải ngạc nhiên. Nếu Chúa Giê-su đã khen lòng tin của người đàn bà bị bệnh loạn huyết khi bà nghĩ rằng chỉ cần đụng vào gấu áo Ngài cũng đủ để được khỏi, thì lòng tin của viên đại đội trưởng này còn mạnh hơn nhiều. Ông tin rằng Chúa Giê-su chỉ cần nói một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giê-su đã thốt lên: Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế”.

3. Viên đại đội tưởng này, tuy là người ngoại, nhưng ông đã có một niềm tin mạnh khiến Chúa Giê-su phải ngạc nhiên.

Đối với chúng ta ngày nay, cần phải hiểu rõ hơn thế nào là niềm tin và đức tin. Sách Giáo lý Công giáo viết: Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động “nhờ Đức ái” (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước niềm vui trên trời (số 28).

4. Ngoài niềm tin mạnh mẽ và sâu sắc, viên sĩ quan này còn có một sự khiêm tốn thẳm sâu trước mặt Chúa. Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người đầy tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rô-ma để cai trị một vùng của người Do-thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cản Chúa Giê-su truyền đạo.

Thế nhưng, ông nhận ra con người Chúa Giê-su không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông đã cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”.

5. Ngoài đức tin và lòng khiêm tốn, vị sĩ quan này còn có lòng thương người, bằng chứng là ông không xin gì cho ông mà lại xin cho người đầy tớ của ông được khỏi bệnh. Tin Mừng còn cho thấy một bên là hình ảnh của con người đau khổ bệnh tật, một bên là tình yêu cứu chữa của Chúa Giê-su. Sợi giây nối kết con người khốn khổ với Chúa Giê-su chính là lòng tin của con người. Chúa Giê-su đã làm phép lạ chữa lành người đầy tớ của viên đại đội trưởng là do lòng tin của ông. Lòng tin của người này cần thiết để cho người khác được cứu chữa.

Ngày nay, Chúa Giê-su cũng cần lòng tin của chúng ta để cứu chữa những người đau khổ chung quanh chúng ta. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những cử chỉ cụ thể, những sự hiện diện để giúp đỡ ủi an. Lòng tin ấy cũng chính là một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Tin ở tình yêu Thiên Chúa ngay giữa những lúc ốm đau thử thách là thái độ cơ bản nhất của người Ki-tô hữu. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu ấy vượt mọi suy nghĩ, mọi giới hạn của ngôn ngữ loài người, đó phải là sứ điệp mà người Ki-tô hữu mang lại cho người khác (Mỗi ngày một tin vui).

6. Truyện: Nỗ lực rồi cậy trông.

Nữ thủ tướng Margaret Hilda Thatcher sinh ra tại một thị trấn nhỏ của Anh. Từ nhỏ, bố của Margaret đã giáo dục cô rất nghiêm khắc. Ông thường xuyên nói với cô những câu như: “Cho dù làm bất cứ việc gì cũng phải tranh làm đầu tiên, tuyệt đối không được đứng sau người khác. Cho dù ngồi xe bus cũng phải ngồi hàng ghế đầu. Hơn nữa, tuyệt đối không được phép nói: “khó quá” hay “con không làm được”.

Quả thực đối với cô bé Margaret, yêu cầu như vậy là quá nghiêm khắc. Nhưng có điều cũng chính vì sự giáo dục nghiêm khắc của bố như vậy nên Margaret đã hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi khi làm chuyện gì, Margaret luôn mang trong mình niềm tin tất thắng, hơn nữa sẽ cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu của mình. Cô đã dùng hành động thực tế để chứng minh mình phải “vĩnh viễn ngồi ở ghế hàng đầu”.

Hồi Margaret học đại học, nhà trường đề ra kế hoạch dạy tiếng La-tinh trong vòng năm năm. Kết quả chỉ trong một học kỳ, Margaret đã học xong hết, hơn nữa thành tích thì lại rất cao. Cô đã xuất sắc đứng đầu. Margaret không chỉ có thành tích xuất sắc mà còn tích cực tham gia thể thao, ca hát, diễn thuyết và những hoạt động khác của trường. Cô đã trở thành học sinh ưu tú của trường. Giảng viên đại học của Margaret đã từng nói: Margaret là học sinh xuất sắc nhất của trường chúng tôi từ khi thành lập đến nay. Cô bé lúc nào cũng tự tin, luôn làm tốt mọi chuyện”. Cô đã có một niềm tin mạnh vào cuộc sống và tương lai của mình.

Về sau, Thatcher trở thành một nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Anh, trở thành ngôi sao sáng chói trên vũ đài chính trị Châu Âu.


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Lễ vọng thánh Phêrô và thánh Phaolô, tông đồ

 

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, Thánh Phêrô Tông đồ và thánh Phaolô thày dạy muôn dân, đã giáo huấn chúng tôi biết lề luật Chúa.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, là Thiên Chúa chúng con, Chúa đã sai hai thánh Phê-rô và thánh Phao-lô tông đồ đến giảng dạy cho Hội Thánh những điều căn bản của đức tin. Xin nhận lời các ngài cầu thay nguyện giúp mà thương tình nâng đỡ và ban cho chúng con vững vàng tiến bước trên con đường cứu độ. Chúng con cầu xin…

Bài đọc I: Cv 3, 1-10

“Tôi có cái này tôi cho anh là: nhân danh Đức Giêsu, anh hãy đứng dậy mà đi”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vào giờ thứ chín, là giờ cầu nguyện, Phêrô và Gioan lên đền thờ. Lúc bấy giờ có một anh què từ lúc mới sinh, hằng ngày được người ta khiêng đến cửa đền thờ, gọi là cửa Đẹp, để xin những người vào đền thờ bố thí cho. Khi thấy Phêrô và Gioan tiến vào đền thờ, anh liền xin bố thí. Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: “Anh hãy nhìn chúng tôi”. Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh là: nhân danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!”

Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa. Họ nhận ra anh chính là kẻ ngồi ăn xin ở cửa Đẹp đền thờ, nên họ bỡ ngỡ và sửng sốt về việc xảy đến cho anh. Đó là lời Chúa.

Đáp ca: Tv 18, 2-3. 4-5

Đáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất 

Xướng: Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa; thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác; đêm này truyền tụng cho đêm kia. – Đáp.

Xướng: Đây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. – Đáp.

Bài đọc II: Gl 1, 11-20

“Thiên Chúa đã tách riêng tôi từ lòng mẹ”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng: Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận, cũng không học với loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc khải. Anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội Thánh của Thiên Chúa thái quá: trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi. Nhưng khi Đấng tách riêng tôi ra từ lòng mẹ, và dùng ơn Người mà kêu gọi tôi, để tôi rao giảng Người trong các dân ngoại, thì không lúc nào tôi bàn hỏi người xác thịt máu huyết, và tôi không lên Giêrusalem, để gặp các vị làm tông đồ trước tôi, nhưng tôi đi ngay đến Arabia, rồi lại trở về Đamas. Đoạn ba năm sau, tôi mới lên Giêrusalem để gặp Phêrô, và lưu lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một tông đồ nào khác, ngoài Giacôbê, anh em của Chúa. Đây trước mặt Thiên Chúa, tôi viết cho anh em những điều này, tôi cam kết rằng tôi không nói dối đâu. Đó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 21, 17d

Alleluia, alleluia! – Thưa Thầy, Thầy thông biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy. – Alleluia.

Phúc âm: Ga 21, 15-19

“Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý; nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”. Đó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, trong ngày đại lễ kính hai thánh Tông đồ Phê-rô và thánh Phao-lô, chúng con vui mừng mang của lễ dâng lên bàn thờ Chúa. Xin Chúa thương chấp nhận và cho chúng con càng biết mình chẳng có công trạng gì, càng sung sướng vì được Chúa thương cứu độ. Chúng con cầu xin…

Lời tiền tụng như trong thánh lễ chính ngày.

Ca hiệp lễ

Simon con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không? Lạy Thầy, Thầy thông biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã dùng giáo huấn của các vị Tông Ðồ để soi đường dẫn lối cho tín hữu. Xin cho bí tích này đem lại cho chúng con nhiều sinh lực mới. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

Phêrô và Phaolô: Chứng Nhân của Tình Yêu và Lòng Mến

BÀI SUY NIỆM LỄ VỌNG (Ga 21, 15-19)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng ta về với hai khuôn mặt vĩ đại của tình yêu và lòng mến là Phêrô và Phaolô.

Mỗi lần đọc đoạn Tin Mừng (Ga 21, 15-19) với ba lần Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Hai lần ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Lần thứ ba ông thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”, không khỏi làm chúng tuôn trào xúc động trước tình yêu Chúa dành cho ông và lòng mến ông đáp lại Chúa, khiến Chúa Giêsu bảo ông ba lần: “Hãy chăm sóc chiên con… chiên mẹ… của Thầy” (x. Ga 21.15.16.17).

Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã ngăn cản lòng trung thành bảo vệ Phêrô nên nói: “Hãy sỏ gươm vào bao, kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Ga 18,11). Không lâu sau đó Phêrô đã chối Thầy vào lúc đỉnh cao của cuộc khổ: “Tôi chẳng biết người ấy là ai !” (x. Ga 18.17.25.27). Tuy nhiên, với giọt nước mắt đầy lòng thống hối ăn năn chảy thành rãnh trên gò má, nhất là Phêrô vẫn yêu mến Thầy. Nếu Gioan người bạn của ông đã nghe được lời ông chối: “Tôi chẳng biết người ấy là ai!” Thì Gioan cũng nghe được lời tuyên xưng đầy tình yêu và lòng mến của Phêrô với Thầy đến ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy”, như để sửa lại ba lần chối Thầy trong cuộc khổ nạn, mà cho đến giờ này Phêrô vẫn còn cảm thấy lòng mình cháy bỏng vết thương đã gây ra cho Thầy trong đêm ông phản bội. Tình yêu của Chúa Giêsu đã đủ cho Phêrô. Ông không được chiều theo cơn cám dỗ tò mò, ghen tị, như khi nhìn thấy Gioan đứng gần ông, ông đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, còn anh này thì sao?” (Ga 21, 21). Nhưng Chúa Giêsu, trước những cám dỗ ấy đã trả lời Phêrô: “Việc gì đến con? Phần con, hãy theo Thầy!” (Ga 21, 22).

Phaolô, vị thánh mệnh danh là bị tình yêu Đức Kitô thúc bách (x. 2 Cr 5,15). Trước khi gặp Chúa Giêsu Phục Sinh, vì lòng nhiệt thành với Đạo Do Thái, ông đã bắt bớ những người theo Chúa Giêsu (x.Cv 8,3-9,2), cố tình tiêu diệt Hội Thánh ngay từ lúc phôi thai, làm cho Khanania khiếp sợ (x.Cv 9,13-14). Được Chúa Giêsu Phục Sinh biến đổi, ông gắn bó với Người bằng tình yêu không thể chia lìa, ông nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?” (Rm 8,35).  Đức Kitô đã trở nên “người yêu” và “người tình” của Phaolô. Đức Kitô không ngừng ám ảnh ông, đến độ Phaolô phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Ga 2, 20).

Giáo hội của Chúa là thánh, nhưng thành phần của Giáo hội là những tội nhân. Các Tông Đồ là những người có sứ mệnh tiếp tục công việc của Chúa Giêsu đều là những tội nhân, những tội nhân đã được thánh hóa, chính Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa Giáo hội của Người.

Như vậy, Tình Yêu của Thiên Chúa nhập thể, Tình Yêu này khi mặc lấy xác phàm, biểu lộ quyền năng và sức mạnh vô biên của Thiên Chúa trong sự yếu đuối, mỏng giòn của con người. Chính vì sự yếu đuối nghèo hèn của Phêrô mà Chúa Giêsu trao Giáo hội của mình cho ông. Chính sự nhiệt thành đầy kiều hãnh của Phaolô, mà Chúa đặt ông làm Tông đồ dân ngoại, để cùng với Phêrô thể hiện sự tràn đầy của Chúa Giêsu Tình Yêu. Cả hai đã đón nhận tình yêu của Chúa Giêsu và để cho mình được tình yêu Chúa biến đổi.

Thiên Chúa là Thánh ở giữa chúng ta, đã thông ban tình yêu của Ngài cho hết mọi chi thể trong thân thể Ngài. Giáo hội, thánh thiện và tinh tuyền, nhận lãnh Tình Yêu của Thiên Chúa, được Tình Yêu biến đổi. Mầu nhiệm của tình yêu chỉ có thể được đón nhận bằng tình yêu, Giáo hội là mẹ, hiền thê yêu dấu duy nhất của Chúa Giêsu, nhưng gồm các tội nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô đặt câu hỏi: “Làm thế nào Giáo hội có thể là thánh thiện khi những thành viên của mình là những người tội lỗi?” Ngài khẳng định: “Chúng ta tất cả đều là những người tội lỗi. Tuy nhiên, Giáo hội là thánh! Chúng ta là những người tội lỗi, nhưng Giáo hội là thánh. Giáo hội là hiền thê của Chúa Giêsu Kitô, và Người yêu thương hiền thê của mình, Người thánh hoá Giáo hội mỗi ngày với hy tế Thánh Thể bởi vì Người yêu thương Giáo hội hết mực và chúng ta tuy là những tội nhân, nhưng chúng ta ở trong một Giáo hội thánh thiện, và chúng ta cũng được thánh hóa. Mẹ Giáo hội thánh hóa chúng ta, với lòng từ ái, với các bí tích của Phu Quân mình.” (Trích Bài giảng tại nhà nguyện Matta 09/5/2016).

Nếu hôm nay Chúa Giêsu hỏi mỗi người chúng ta cùng một câu hỏi như Chúa hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Chúng ta trả lời Chúa ra làm sao? Chúng ta yêu mến Chúa thế nào? Phêrô chỉ cách cho chúng ta: tin tưởng vào Chúa, Ðấng “biết mọi sự” về chúng ta, Ðấng tin nơi chúng ta không phải vì chúng ta có khả năng trung thành, nhưng vì lòng trung thành vững chắc của Chúa. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, vì Chúa không thể chối bỏ chính mình (x. Tm 2,13). Thiên Chúa luôn trung tín. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy yêu mến Chúa và Giáo hội hết lòng và làm tất cả vì Chúa: “Dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).

Kính lạy hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, chứng nhân của tình yêu và lòng mến, xin cầu cùng Chúa cho chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong mọi người. Amen.


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Phêrô và thánh Phaolô, tông đồ

 

Dẫn vào thánh lễ

Thánh Phêrô và Thánh Phaolô là hai “cột trụ” của Hội Thánh. Trước hết chúng ta hãy dâng lên lời cảm tạ sâu sắc vì Thiên Chúa đã dùng hai Thánh Phêrô và Phaolô để xây dựng Hội Thánh và rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Chúng ta hãy thể hiện một lòng tin yêu son sắt với Hội Thánh, với các Đấng kế vị Thánh Phêrô và các Tông Đồ, đó chính là sứ điệp của Lời Chúa hôm nay.

Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, hai Đấng vĩ đại nhất của lịch sử Giáo Hội, hai kinh nghiệm thấm thía của những tâm hồn cúi sâu vào cuộc thông hối, chứa chan cảm kích vì đã được thương xót.

Trong tâm tình ấy chúng ta cùng nhau thành tâm thống hối để xứng đáng cử hành Mầu Nhiệm Thánh.

Ca nhập lễ

Đây là những người khi còn sống ở trần gian, đã gieo trồng Hội thánh bằng máu mình; đã uống chén đau khổ của Chúa Kitô và trở nên bạn hữu của Thiên Chúa

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phê-rô và thánh Phao-lô. Chính nhờ các ngài Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: Cv 12, 1-11

“Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Ðến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: “Hãy chỗi dậy mau”. Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: “Hãy thắt lưng và mang giày vào”. Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: “Hãy khoác áo vào mà theo ta”.

Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: “Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ

Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Ðáp.

Xướng: Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. – Ðáp.

Xướng: Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. – Ðáp.

Xướng: Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. – Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18

“Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! – Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 16, 13-19

“Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Anh chị em thân mến!

Với ơn Thánh Chúa, Thánh Phêrô đã sám hối, thánh Phaolô đã được biến đổi và đã trở thành những vị cột trụ của Hội Thánh. Nhờ công nghiệp của các Ngài chúng ta tha thiết nguyện xin:

1. “Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. – Xin cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục trên khắp thế giới, giữ vững ngôi nhà Thiên Chúa đã đặt để các ngài là đá tảng, nhờ đức tin kiên vững, lòng mến tha thiết, nhờ sự hướng dẫn và cầu bầu của hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phaolô.

2. “Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai Thiên Thần cứu tôi”. – Xin cho Đức Hồng Y Phê-rô của chúng ta luôn tràn đầy Ơn Chúa, kiên trung chèo lái con thuyền Tổng Giáo phận nhờ sự cầu bầu của Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lô Tông đồ.

3. “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa”. – Xin cho các Kitô hữu ngày càng thêm gắn bó với nhau, trong việc bảo vệ danh dự và vinh quang Nước Chúa trên mảnh đất này.

4. “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. – Xin cho mỗi người chúng ta nhờ ánh sáng đức tin tông truyền, xác tín vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất của từng người và mọi người.

Kết:

Lạy Chúa, xin cho ngọn lửa tình yêu Chúa luôn bừng cháy trong toàn thể Tổng Giáo Phận chúng con, giúp chúng con biết cộng tác trong hoạt động, nâng đỡ nhau trong buồn vui, để mỗi ngày chúng con thêm xác tín về sự hiện diện của Chúa trong mọi người. Chúng con cầu xin nhờ nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, chúng con dâng những lễ vật này để tôn vinh danh Chúa. Xin Chúa thương nhận lời hai thánh tông đồ cầu khẩn, và ban cho chúng con được sốt sắng cử hành lễ tế tạ ơn. Chúng con cầu xin…

Lời tiền tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi, mọi lúc, thật là chính đáng phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Hôm nay, Chúa cho chúng con được vui mừng trong ngày lễ trọng kính hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Chúa đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Ít-ra-en, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân. Như vậy, các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Ðức Kitô, nên các ngài đáng được thế giới ngưỡng mộ và được lãnh nhận cùng một triều thiên vinh quang.

Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh chúng con ca ngợi Chúa và không ngừng tung hô rằng:

Thánh! Thánh! Thánh!…

Ca hiệp lễ

Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa Giêsu đáp: Con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã dùng bí tích thánh thể bồi dưỡng chúng con. Xin dạy chúng con sống trong Giáo Hội như các Kitô hữu đầu tiên, là chuyên cần tìm hiểu giáo lý các tông đồ, và siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, để chúng con yêu mến Chúa hết lòng và nhờ đó được đồng tâm nhất trí với nhau. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

Phêrô và Phaolô – Tượng đài hiệp nhất
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông Đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn.

Bản tin Zenit.org tháng 7 năm 2010 kể về “Ngục thất nơi giam hai thánh Phêrô và Phaolô: Từ tăm tối trở thành ánh sáng”.

Sau một năm trời khai quật, Nhà ngục Mamertine, nơi Thánh Phêrô và Phaolô phải giam giữ trước khi bị hành hình, đã được tân trang và mở cửa lại.

Địa điểm nhà ngục nằm cạnh Quần thể Cổ Roma (Ancient Roman Forum), tạc sâu vào vách đá của đồi Capitol (Capitoline Hill) và nhìn xuống ngôi nhà dùng làm Nghị viện thời đó. Người ta vẫn tin là nhà ngục này – còn có tên gọi là Carcer Tullianum – được hoàng đế Roma Servius Tullius xây vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, gồm có hai phòng giam chồng lên nhau. Phòng giam dưới là một khoảng chật hẹp ẩm thấp, chỉ xuống được qua một lỗ hổng trên sàn phòng giam trên, được sử dụng suốt thời kỳ Cộng hoà và Đế quốc Roma để làm tù ngục giam giữ và hành quyết.

Chính tại phòng giam này viên tướng chỉ huy quân đội người Gaule là Vercingetorix bị xiết cổ chết sau trận chiến thắng của Julius Caesar, và cũng tại nơi đây, trong tù ngục âm u, Jugurtha, vua người Numidians đã bị để cho chết đói. Vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Sallust một văn sĩ Roma đã mô tả nhà ngục này “sâu 12 feet, chung quanh là tường và trên là mái vòm bằng đá. Khung cảnh thật ghê tởm và đáng sợ vì bị bỏ bê, tối tăm và hôi thối.”

Một thế kỷ sau lời mô tả như trên của Sallust, Thánh Phêrô và Phaolô đã phải đến cư ngụ trong phòng giam dưới cực kỳ ghê tởm này, trong những ngày cuối đời trước khi tử vì đạo, bị cầm tù theo lệnh của hoàng đế Nero. Sự hiện diện của hai vị tông đồ đã chuyển biến địa điểm thất vọng này thành nơi chỗ hy vọng, khi các ngài rao giảng đức tin cho lính canh ngục là Processus và Martinianus. Hai người lính Roma xin được rửa tội, nhưng không có nước trong phòng giam để cử hành bí tích này, vì thế Thánh Phêrô dùng gậy đập trên nền phòng và nước phun ra từ tảng đá. Địa điểm nơi dòng nước của phép lạ này chảy ra nay còn được ghi nhớ nơi phòng giam dưới.

Những người giam giữ Phêrô giúp ông vượt ra khỏi nhà ngục tồi tệ này, nhưng sau khi gặp được Chúa Kitô trên con đường Appian, Thánh Phêrô quay trở lại và tự ý nhận lấy cái chết là bị đóng đinh vào thập giá tại đấu trường của Nero trên đồi Vatican.

Tuần qua, văn phòng của vị giám sát khảo cổ tại Roma loan báo rằng công việc khai quật đã khám phá ra những phần còn lại của các bích họa cho biết việc chuyển đổi nơi này thành một không gian tôn kính của người Kitô giáo đã xảy ra ngay tận đầu thế kỷ thứ 7, cùng thời gian với việc Curia (Nghị viện) được biến đổi thành một thánh đường cũng như nhiều cấu trúc khác trong khu vực Quần thể. Cuộc khai quật dõi tìm được dấu vết nhiều giai đoạn khác nhau của khu vực này, từ lúc còn là khu mỏ đá cổ cho đến khi trở thành nhà ngục cho đến lúc “biến đổi rất nhanh” thành một trung tâm tôn kính Thánh Phêrô.

Ngày nay, ngục giam này nằm dưới ngôi Thánh đường San Giuseppe dei Falegnami xây vào thế kỷ 17, nhưng địa điểm là do Tòa giám quản giáo phận Roma sở hữu và sẽ được Opera Romana Pellegrinaggi mở cửa cho công chúng vào thăm viếng có thể là từ đầu tháng 7 này. Ở đó khách hành hương có cơ hội tỏ lòng tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô. Hai thánh nhân đã từng nhìn ra ngoài Quần thể nơi có nhiều đền đài thờ phượng những con người phàm đã biến thành thần nhân, và các ngài đã có dũng cảm tuyên xưng Tin Mừng của Thần Chúa đã sinh hạ làm người phàm. (x.VietCatholic News, 03-7-2010).

Hai Thánh Tông Đồ: Phêrô – Phaolô, hai vì sao sáng ngời chiếu toả ánh sáng Chúa Kitô cho nhân loại.

Bài ca nhập lễ ngày Lễ Trọng hôm nay vang lên hùng tráng: “Hai vì sao sáng chói, lấp lánh trên bầu trời, ngời sáng đêm trường, rực rỡ soi đường sưởi ấm yêu thương. Hai tình yêu chiến thắng, ngất ngây trong cuộc đời, từ trái tim nồng dòng máu anh hùng ngời sáng muôn trùng”. Hai Thánh Tông Đồ là hai con người xuất thân khác nhau, tính cách khác nhau nhưng cùng một niềm tin, cùng một sứ mạng và cùng một vinh quang được đội triều thiên vinh hiển để trở thành hai vì sao sáng cho Giáo hội.

“Còn nhớ hôm nào người ba lần chối Giêsu. Còn nhớ ngày nào người bắt Chúa trong căm thù”. Lời ca ngắn đúc kết phần một trong cuộc đời hai Ngài: chối Thầy, bắt Thầy. Nhưng cuộc đời phần hai đã viết nên những trang hào hùng oanh liệt. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối, hai Ngài cầm đuốc Tông đồ rao truyền Tin mừng Chúa Giêsu Kitô cho thế giới.

Đọc lại cuộc đời của hai Thánh Tông đồ để nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.

1. Thánh Phêrô

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời ông ra làm hai: cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy; phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma. Trong cuộc đời phần một của Phêrô, ông đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa,Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14,66-72). Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất. – Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14,31) – Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15,16) – Lần thứ ba: Satan (Mc 8,33). Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn. Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn có một tâm hồn chân thành. Phần hai cuộc đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Gioan (Ga 21,2-3). Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đếm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời. Sứ mạng theo Đức Kitrô khởi đầu từ đây khi bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng. Chính Đấng Phục sinh đã hỏi Ông: Phêrô, con có yêu mến thầy không? Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, thầy biết con yêu mên Thầy. Sau khi Phêrô trả lời câu hỏi ấy với tất cả chọn lựa cân nhắc, Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào. Thế rồi Chúa bảo ông: hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao. Từ đây trên tảng đá này Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được. Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

2. Thánh Phaolô

Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, chúng ta bắt gặp một Saolô, ở Tac-xô, là người Do-thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do-thái – Hy-lạp, rất sùng đạo theo môn phái Ga-ma-li-ên ở Giê-ru-sa-lem. Cuộc đời phần một của Phaolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Tê-pha-nô và trên đường Đa-mát truy lùng các Kitô hữu.

Được ơn trở lại trên đường Đa-Mat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Cuộc đời phần hai của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Sách Công vụ tông đồ kể lại: trên đường Đa-mat, Phaolô rong ruổi trên yên ngựa hăng say truy bắt các Kitô hữu thì thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu (Pl 3,7-9). Từ đó trở đi Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: “Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do-thái hay Hy-lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu (Gal 3,27-28). Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” (Col 3,11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời Phaolô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cor 9,3-18; 2Cor 11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi. Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng (2 Cor 11 23-27). Phaolô ra vào tù thường xuyên, có lần Ngài viết từ ngục thất cho Ti-mô-thê, người môn đệ, có khi không khỏi nao núng: “anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn “vì tôi biết tôi đã tin vào ai…” (2 Tim 1,8-12). Vì Đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” (2Tim 2,9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2cor 4,8-9) Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

3. Phêrô và Phaolô, tượng đài hiệp nhất.

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội (x. Làm nụ hoa trắng. ĐGM Vũ Duy Thống).

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô đã nên hai vì sao sáng ngời, trở nên nền tảng hiệp nhất. Xin hai Ngài luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.

Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

Theo Lịch giỗ các thánh tử đạo (Depositio martirum) năm 354 người ta đã cử hành trọng thể lễ hai thánh Tông Đồ Rôma vào ngày 29 tháng 6 này: Mừng thánh Phaolô tại chính ngôi mộ của người trên đường Ostia và mừng thánh Phêrô tại hang toại đạo đường Appia. Tại Rôma vào thế kỷ VII, lễ này được mừng hai ngày: phần kính nhớ thánh Phaolô quả thật được dời vào hôm sau, ngày 30 tháng 6, tuy vẫn được đính kèm trong các Thánh lễ ngày 29 tháng 6. Do đó, ngày lễ hai thánh này đã được phổ biến ở Đông Phương lẫn Tây Phương. Ngày nay, Thánh lễ vọng vào ban chiều chuẩn bị cho việc cử hành lễ mừng duy nhất, kết hợp hai vị thánh Tông Đồ.

Phêrô, quê ở Bếtsaiđa, trên bờ hồ Ghênêsarét. Tên Do Thái của người là Siméon hay Simon, với biệt danh là Képhas, có nghĩa là “đá”. Tên gọi này nói lên sứ vụ Đức Giêsu giao phó cho Simon: đó là trở thành nền tảng cho Hội thánh. Theo Tertullien (thế kỷ II), thánh nhân chết vì bị đóng đinh vào thập giá và theo Origène, đầu ngài bị quay ngược trở xuống theo tập tục người Rôma khi đóng đinh các nô lệ. Các khai quật mới đây dưới vương cung thánh đường Vaticano xác nhậc các chứng cứ được lưu truyền về cuộc tử đạo của Phêrô tại Rôma (xem Clément de Rome, thư gửi các tín hữu thành Côrintô V,1-4), trên đồi Vatican khoảng năm 67; về sau, nơi đây người ta xây dựng vương cung thánh đường Constantin.

Thánh Phaolô, quê tại Tarsus, ở Cilicie, ngoài tên Do Thái là Saul, ngài còn mang tên La Tinh là Phaolô. Tuy là biệt phái, xét theo lề luật, nhưng ngài đã trở lại đạo khoảng 33/35. Sau khi bị cầm tù lần thứ hai tại Rôma, có lẽ ngài đã bị chém đầu khoảng năm 67 (cũng chính Tertullien cho chúng ta biết điều này, theo lưu truyền từ xưa) tại Aquas Salvias, độ 5km về hướng nam Rôma và được mai táng trên đường Ostia, nơi đây, người ta xây vương cung thánh đường thánh Phaolô-ngoại thành.

2. Thông điệp và tính thời sự

Sách lễ đưa ra hình ảnh hai vị thánh Tông Đồ “được qui tụ để cùng chia sẻ một niềm vinh quang” và “cùng được tôn kính như nhau” (kinh Tiền Tụng).

Lời nguyện Thánh lễ vọng trích lại một câu trong sách bí tích của Vêron (số 1219): “Chính nhờ các ngài mà Hội thánh Chúa đã đón nhận các lợi ích do ân sủng Chúa đem lại, nghĩa là nhờ lời giảng dạy của các ngài. Cũng thế, lời nguyện hiệp lễ lại nhắc lại điều này: “Lạy Chúa, Chúa đã dùng các lời giảng dạy của các thánh Tông Đồ mà soi sáng lòng tin của các tín hữu.” Chủ đề này được lặp lại trong lời nguyện chính lễ, ghi nhận rằng “Chính nhờ các ngài mà Hội thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin”. Đức tin do các Tông Đồ giảng dạy được bày tỏ qua các nét độc đáo nơi cộng đoàn tiên khởi của Giáo Hội Giêrusalem, ở đó các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng (Cv 2,42). Kinh Tiền tụng thực hiện một tổng hợp thần học về tính tông truyền này, khi nêu bật các khía cạnh bổ túc lẫn nhau nơi hai vị thánh Tông Đồ. Các ngài đã xây dựng Hội thánh duy nhất bằng các đoàn sủng khác nhau. “Bởi lẽ Cha cho chúng con vui mừng trong ngày lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin; Thánh Phêrô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy cho muôn dân biết Tin Mừng cứu độ.”

Cuộc tử đạo của thánh Phêrô và thánh Phaolô vẫn luôn là dấu chỉ hợp nhất của Hội thánh ở mọi thời, như thánh Augustinô ghi nhận qua Bài đọc – Kinh sách: “Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ. Nhưng hai vị xưa kia chỉ là một. Thánh Phêrô đi trước, rồi thánh Phaolô theo sau. Đối với chúng ta, ngày lễ chúng ta cử hành hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ. Chúng ta hãy quí chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của ngài, quí chuộng những lời các ngài tuyên xưng, những điều các ngài rao giảng.

Enzo Lodi

 

TRUNG THÀNH TUÂN GIỮ
(LỄ THÁNH PHÊRÔ & PHAOLÔ)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Phêrô và Phaolô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho chúng ta được vui mừng hoan hỷ, nhân ngày đại lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ các ngài, mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, thì xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không hai trong Kitô giáo. Tuy nhiên, hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, tại Rôma: có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.

Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, bởi vì, các ngài được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô nói: Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, bởi vì, các ngài đã dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho những gì các ngài giảng dạy, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Một khi các ngài đã đi theo đường công chính, vì tuyên xưng và chết cho chân lý, thì giờ đây, các vị tử đạo này được thấy: thể hiện điều các ngài đã rao giảng. Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ: Thánh Phêrô đi trước, rồi thánh Phaolô theo sau, hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ.

Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, cho dẫu, bị bắt bớ, bị bách hại, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy: Các Tông Đồ bị tống ngục, nhưng, Chúa đã giải thoát họ, như lời thánh Phêrô nói: Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Dothái mong muốn tôi phải chịu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 33, vịnh gia cũng cho thấy: Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, ắt sẽ được Chúa ban thưởng xứng đáng, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với thánh Phêrô: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên thánh Phêrô xứng đáng được nghe Chúa nói: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khóa này. Do đó, địa vị nổi bật của thánh Phêrô được đề cao, vì chính ngài tiêu biểu cho đặc tính phổ quát, và duy nhất của Hội Thánh. Ước gì khi mừng lễ hai thánh Tông Đồ, chúng ta biết quý chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của các ngài, biết quý chuộng những lời các ngài tuyên xưng, và những điều các ngài rao giảng, hầu chúng ta có thể trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Ước gì được như thế!

SỨ MỆNH BẤT DI BẤT DỊCH
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời!”.

Hudson Taylor, 1832-1905, nhà truyền giáo vĩ đại người Anh sống tại Trung Quốc 51 năm. Ông xây 125 trường học, lập 300 cứ điểm Tin Mừng, hơn 500 người giúp việc, đem về cho Chúa 18.000 linh hồn trong những năm đầu. Nhật ký ngày đầu tiên của ông ghi, “Cho một sứ mệnh bất di bất dịch, chúng tôi có 25 xu, và tất cả những lời hứa của Chúa!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa kính hai thánh Phêrô - Phaolô cho thấy, Giáo Hội không phải là ‘công việc’ của loài người, nhưng là ‘công trình’ của Thiên Chúa; không bắt đầu “với 25 xu”, nhưng với “12” con người hèn yếu “và tất cả những lời hứa của Chúa!”. Chúa Giêsu trao cho họ một ‘sứ mệnh bất di bất dịch’; với Phêrô, “Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời!”.

Qua mọi thời, Giáo Hội luôn gặp nhiều khó khăn, ghét bỏ, hiểu lầm, vu khống, chế giễu; thậm chí, bách hại đến đổ máu. Mặc dù đôi khi lố ​​bịch và đáng trách là do lỗi cá nhân của các thành viên; nhưng thông thường, Giáo Hội vẫn đang tiếp tục bị đàn áp do chính sứ mệnh của mình. Và vì đã là công trình của Thiên Chúa thì dấu chấm hết là điều không bao giờ xảy ra! Sứ mệnh đó được rao truyền một cách rõ ràng, nhân ái, chắc chắn, và có năng quyền. Đó là lý do đầu tiên Giáo Hội bị ghét bỏ và chịu công kích!

Sứ mệnh của Phêrô là gì? Là giảng dạy một giáo lý đức tin tinh tuyền về lòng thương xót của Thiên Chúa. Giáo Hội chăn dắt dân Chúa, dẫn đoàn chiên Ngài đến vui hưởng sự sống đời đời. Phêrô, Phaolô không chỉ là hai trong số những tấm gương lớn về sứ mệnh đã được nhận lãnh, nhưng còn là nền tảng - trên đó - Chúa Kitô đã bắt đầu một ‘sứ mệnh bất di bất dịch’. Với Phêrô mà “chìa khoá” Ngài trao, tượng trưng quyền lãnh đạo và giáo huấn. Đây là món quà thiêng liêng được gọi là ‘không thể sai lầm’ cho người kế vị và các đấng kế nhiệm. Dẫu Phêrô và các đấng đến sau có nhiều yếu đuối, nhưng chìa khóa Nước Trời vẫn được bảo tồn và thi hành đúng chức vụ và năng quyền của nó.

Thứ đến, Phaolô. Thư Timôthê hôm nay nói đến ‘sứ mệnh bất di bất dịch’ ông đã lãnh nhận và chu toàn, “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng”. Ngài xác tín, “Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi nỗi kinh hoàng” - Thánh Vịnh đáp ca. Đó cũng là tâm sự của Phêrô khi Chúa sai thiên thần đến giải thoát ông khỏi ngục tối - bài đọc một. Cuối cùng, cả hai ngài đều đã trả giá cho sự trung thành bằng việc tử đạo.

Kính thưa Anh Chị em,

“Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời!”. Trong sức mạnh Thánh Thần, các đấng kế vị Phêrô tiếp tục nhận chìa khoá Nước Trời và thi hành ý muốn của Thầy. Yếu tố con người không thành vấn đề, cho dù “chỉ với 25 xu”, quan trọng là “những lời hứa của Chúa”. Chớ gì ân sủng và những tố chất thần linh được ban qua phép Rửa Tội cũng thổi lên lửa tông đồ trong bạn và tôi; nhờ đó, chúng ta nỗ lực hết mình để trung thành thi hành bổn phận theo đấng bậc mình! Chúa Kitô đã đến trần gian, Ngài thi hành sứ mệnh cách âm thầm, kết thúc cách đau thương nhưng sống lại cách rạng rỡ. Vì thế, việc chúng ta ngưng thi hành sứ vụ là điều không bao giờ có thể xảy ra!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con có nhiều hơn “25 xu, và tất cả những lời hứa của Chúa”. Đừng để con chểnh mảng với ‘sứ vụ’, hời hợt với ‘sứ mệnh’ và ‘di dịch’ ‘sứ điệp’ của mình!”, Amen.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây